Đau đầu là một triệu chứng rất phổ biến. Theo thống kê ở các phòng khám ước tính 50% bệnh nhân có chứng đau đầu. Đau đầu do nhiều nguyên nhân nên đòi hỏi phải khám toàn diện và đôi khi cần đến những xét nghiệm cao cấp để chẩn đoán kịp thời, nhất là trong những trường hợp cấp cứu.
II. GIẢI PHẪU - SINH LÝ BỆNH
1. Giải phẫu:
Không phải tổ chức nào ở đầu cũng đều có cảm giác nhức, mà chỉ có một số tổ chức có cảm giác nhức, cụ thể như sau:
- Ngoài sọ: phần mềm da bọc hộp sọ, các mạch máu da đầu, các màng nhầy hốc mũi, các xoang, ống tai ngoài và tai giữa, khớp răng, các cơ mặt - cổ và khớp thái dương hàm. Tuy nhiều thành phần như vậy nhưng thực sự, các yếu tố chính có nhạy cảm nhức cao là cơ, động mạch vàtĩnh mạch.
Trong 2 yếu tố cuối cùng thì động mạch có vai trò quan trọng hơn tĩnh mạch trong cơ chế của những chứng đau đầu. So với những động mạch da đầu thì động mạch thái dương nông nhạy cảm nhất với đau. Khi kích thích các động mạch thì gây những phóng chiếu đau khác nhau, ví dụ kích thích động mạch thái dương gây đau ở vùng đỉnh, động mạch trán trong gây đau ở hốc mắt còn kích thích động mạch chẩm sẽ gây đau ở gáy và sau tai.
- Hộp sọ: hộp sọ không có thụ thể nhạy cảm với nhức trừ màng xương.
- Trong sọ:
. Màng não: đi từ ngoài vào có 3 màng: đó là màng cứng, màng nhện và màng mềm, thì chỉ có một số vùng của màng ngoài cùng có cảm giác với nhức, đó là lớp lát ngoài của đáy sọ và chỗ tiếp xúc với các mạch lớn, động mạch hay xoang tĩnh mạch. Như vậy, liềm não không nhạy cảm đau loại trừ phần ở gần chỗ bám vào xoang tĩnh mạch dọc trên. Lều tiểu não lại nhạy cảm đau cả 2 mặt, đặc biệt khi đè ép vào mặt trên thì phóng chiếu đau ra phía trán mắt.
. Các mạch máu lớn: động mạch màng não có nhạy cảm đau khi bị căng giãn, còn khi co thắt lại không gây đau. Các động mạch nuôi não chỉ nhận cảm giác đau ở đoạn động mạch cảnh nơi xuất phát và đoạn đầu của các động mạch não trước, não giữa và não sau; động mạch thân nền và đa giác Willis. Các tĩnh mạch và các xoang màng cứng lớn như xoang tĩnh mạch dọc trên, xoang thẳng và xoang ngang. Còn các động - tĩnh mạch nhỏ ở các hồi cuộn não không nhạy cảm đau.
. Não: bản thân não không nhạy cảm đau, kể cả những tổ chức đóng vai trò phối hợp chức năng của cảm giác đau như đồi thị hay bó gai thị.
. Các dây thần kinh cảm giác: dây thần kinh tam thoa phụ trách vùng hố sọ trên lều tiểu não. Cảm giác ở hố sau là do phần cảm giác của các dây thầnkinh sọ hỗn hợp như dây IX, X, XI và dây trung gian Wrisberg đảm nhiệm.
. Ngoài ra còn có rễ sau C1, 2 và 3: nếu kích thích sẽ gây nhức tương ứng lên các vùng đỉnh đầu, vùng chẩm-cổ. Như vậy, có thể phân chia một cách tương đối thành 2 phần, phần trước do dây V và phần sau mặt phẳng đi ngang qua 2 tai do IX, X, XI và dây trung gian Wrisberg.
2. Sinh lý bệnh:
a. Cơ chế động mạch:
Động mạch căng giãn và bị kích thích là nguyên nhân gây đau đầu.
Đau đầu có thể mang tính kịch phát, kiểu mạch đập như trong bán đầu thống; ngoài ra có loại nhức khôngthành cơn như trong tăng huyết áp, sốt cao, nhiễm độc CO, rượu, choáng phản vệ, hạ glucose máu, thiếu O2.
b. Cơ chế tĩnh mạch:
Có thể đau kịch phát hay liên tục do căng giãn các xoang lớn màng cứngtrong tăng áp lực tĩnh mạch. Đau loại này gặp trong u não, chấn thương sọ não, trong suy tim và suy hô hấp nặng.
c. Cơ chế thần kinh:
Có 2 loại đó là nhức kịch phát (vùng bùng nổ) như trong dây V, IX và nhức liên tục là do cơ học chèn ép (sẹo, di căn, viêm nhiễm...). Loại nhức này theo đường đi của dây thần kinh.
d. Cơ chế đau do cơ:
Do cơ căng quá mức như trong uốn ván, viêm màng não, chấn thương, tư thế xấu lâu ở một số nghề như thợ thêu, đánh máy chữ, thợ quét vôi...
e. Đau đầu do căn nguyên tâm lý:
Căng thẳng thần kinh, lo âu, trầm cảm thường đau không cố định, tập trung vùng đỉnh nhiều. Cảm giác nặng trong đầu như đông đặc, mất ngủ, hồi hộp.
f. Cơ chế khác:
Từ khớp thái dương hàm, cột sống cổ cao, tổn thương màng cứng, tai mũi họng, răng hàm mặt...
II. PHÂN LOẠI ĐAU ĐẦU
Có nhiều cách phân loại song chúng tôi chọn cách phân loại theo thực tế lâm sàng đó là:
1. Đau đầu cấp cứu:
a. Hội chứng tăng áp lực nội sọ.
b. Bệnh Horton.
c. Tổn thương màng não (viêm màng não, chảy máu màng não).
2. Đặc tính đau đầu:
a. Đau đầu kịch phát.
- Đau nửa đầu hay bán đầu thống (Migraine).
- Đau đầu mạch máu.
- Đau dây V.
b. Đau đầu dai dẳng:
- Tổn thương choán chỗ.
- Đau đầu tâm thần...
III. KHÁM BỆNH NHÂN ĐAU ĐẦU
1. Khám lâm sàng:
a. Hỏi bệnh:
Đây là phần chủ yếu của thăm khám nên cụ thể, tỉ mỉ, kỹ càng và có hệ thống.
* Kiểu đau gợi ý hướng chẩn đoán thí dụ như:
- Đau đầu như đội mũ chặt, nặng đầu là rối loạn thần kinh chức năng.
- Nhức điện giật là đau dây thần kinh.
- Đau nhói như mạch đập là bán đầu thống, rối loạn vận mạch, huyết động trong sọ.
* Vị trí đau đầu:
- Đau mặt, ở một bên thường là nhức dây thần kinh tam thoa/đau do bệnh Horton.
- Đau nửa đầu khi tăng khi giảm là đặc tính của bán đầu thống.
- Đau ở chỏm hay ở gáy, cũng như đau tản mạn thường là do tâm thần. Đau ở gáy cũng liên quan đến u hố sau, tăng huyết áp và dây thần kinh Arnold.
* Thời gian cơn đau đầu:
- Đau như tia chớp (trong giây phút) là đau dây thần kinh.
- Nhức trong 1-2 giờ là đau đầu do bệnh Horton.
- Nhức trong nửa ngày đến 2 ngày thường là bán đầu thống.
* Thể thức tiến triển:
- Nếu đau đầu từ 1 đến 3 tháng phải coi chừng là u não.
- Đau đầu từ nhiều năm có thể là do tăng huyết áp, tâm lý hay bệnh Horton.
- Đau đầu không liên tục thành từng đợt không quá 72 giờ là bán đầu thống.
* Nhịp điệu đau đầu:
- Đau đầu nửa đêm về sáng là tăng áp lực nội sọ mà thường gặp là u não, sáng sớm ngủ dậy hay ngay trước ngủ dậy là bán đầu thống.
- Đau mặt thành từng cơn, hàng ngày từ 1 đến 2 giờ, kéo dài trong nhiều năm đó là đau đầu từng chuỗi (Cluster Headache), hay bệnh Horton.
- Khi có thai làm gián đoạn tạm thời bán đầu thống.
- Trong tuần đau đầu vào ngày thứ hai hay thứ 6-7 là do căng thẳng tâm lý.
* Các yếu tố khởi phát cơn đau đầu:
- Khi gắng sức là nhức nguồn gốc tĩnh mạch.
- Khi gắng sức chú ý, xung đột trong cuộc sống là do tâm lý.
- Khi tiếp xúc ở mặt (vùng bùng nổ = Trigger zone) là nhức do đây V.
- Khi đói thường là bán đầu thống.
- Sau ăn sôcôla, thực phẩm giàu tyramin, nitrite, glutamate...
* Những dấu hiệu kèm theo:
- Tăng bài tiết nước mắt, rối loạn thị giác là đặc trưng riêng cuả bán đầu thống và của bệnh Horton.
- Nôn là thuộc tính của bán đầu thống, nhưng cũng có thể là u hố sau hay cơn tăng nhãn áp.
- Lo âu, bồn chồn sau hội chứng trầm cảm thuần túy là nét nổi bật của đau đầu do tâm lý - tâm thần.
* Tiền sử cá nhân và gia đình:
- Không nên bỏ qua chấn thương sọ não, sản khoa và một số bệnh viêm nhiễm não, màng não. Thói quen uống rượu, hút thuốc lá... đều ít nhiều ảnh hưởng đến mộtsố đau đầu. Các điều trị thử đã được dùng và kết quả của chúng.
- Tiền sử gia đình có người bị bán đầu thống thì gặp đến 80%. Các bệnh gây biến đổi nhân cách, rối loạn trí tuệ thường liên quan đến đau đầu do tâm lý.
b. Khám lâm sàng: Gồm khám thần kinh toàn bộ và khám toàn thân.
- Khám tất cả các cơ quan nội tạng song chú ý huyết áp tăng hay thấp, xơ vữa động mạch gây thiếu máu não.
- Khám chuyên khoa: tai mũi họng, răng hàm mặt, mắt chú ý tăng nhãn áp/phù gai thị.
- Khám tại chỗ vùng đầu mặt cổ: Không quên ấn vào những điểm đi ra của dây thần kinh Arnold, dây tam thoa, các điểm xoang, sờ động mạch thái dương xem đập yếu hay không đập. Nghe tại chỗ vùng động mạch cảnh, mắt, để phát hiện tiếng thổi. Khám kỹ cột sống cổ và cơ vùng gáy.
- Khám thần kinh tâm thần: có liệt hay không, rối lọan phản xạ hay không, có dấu tiểu não, màng não. Và cũng không quên chú ý đến khí sắc, định hướng và tâm lý người bệnh.
2. Các xét nghiệm:
Cũng nên chọn lọc khi không rõ nguyên nhân và đau đầu dai dẳng.
Tùy theo từng trường hợp, có thể làm khám nghiệm bổ trợ sau:
a. Máu:
Công thức máu, tốc độ lắng máu, glucoza, ure, bilan lipit, cathecholamin... Thường phát hiện đau đầu do nguyên nhân toàn thân và nội khoa.
b. Chụp X quang:
- X quang sọ thẳng nghiêng, Stenverst, Schüler hay Hirzt.
- Cột sống cổ thẳng nghiêng, 3/4 phải - trái.
- Cắt lớp vi tính/cộng hưởng từ sọ não.
c. Điện não đồ/lưu huyết não: Rối loạn tuần hoàn, động kinh...
d. Dịch não tủy: Viêm màn não, xuất huyết màng não.
IV. CHẨN ĐOÁN ĐAU ĐẦU
1. Trường hợp cấp cứu:
a. Hội chứng tăng áp lực nội sọ (xem bài).
b. Bệnh Horton:
Thường ở người già trên 65 tuổi. Đau đầu dai dẳng trội về đêm gây mất ngủ, được mô tả như tê ở da đầu với tăng cảm khi tiếp xúc. Xen kẽ có các cơn nhức kịch phát khu trú tại một điểm cụ thể (ví dụ đường đi qua của động mạch thái dương). Có thể gặp nói khó kèm đau hoặc khập khiễng hàm một cách đặc hiệu, từng đợt.
Chẩn đoán dựa vào các triệu chứng sau:
- Các dấu hiệu cục bộ: động mạch thái dương bị cứng, sờ nhức, tăng nhiệt độ tại chỗ, không đập (tìm các hoại tử da đầu và lưỡi).
- Có biến đổi trạng thái toàn thân: sốt nhẹ, gầy, mệt mỏi, rối loại khí sắc.
- Có hội chứng đau: đau cơ và khớp của các gốc chi.
- Máu lắng tăng > 80 mm ở giờ đầu với tăng các globulin.
- Luận cứ chắc chắn là sinh thiết động mạch thái dương cho thấy viêm động mạch toàn thể từng đoạn và từng ổ.
- Điều trị: Prednison liệu từ 0,5-1 mg/kg/24giờ.
Sau khi lâm sàng và máu lắng đã trở lại bình thường, giảm từ từ liều (ví dụ 5mg/1 tuần) cho đến liều ngưỡng đối với từng cá thể, vào khoảng từ 15 đến 20 mg/ngày. Thời gian điều trị thay đổi từ 12-36 tháng.
c. Tổn thương màng não (viêm màng não, chảy máu màng não) (xem bài).
2. Đau đầu kịch phát:
a. Đau nửa đầu hoặc bán đầu thống:
- Đau nửa đầu chiếm 6,12-10% dân số, tỷ lệ nam/nữ là 1/2, mang tính chất gia đình cũng hay gặp. Tuổi thường gặp từ thiếu niên tăng đến 40 tuổi, sau đó giảm dần.
- Phân loại bán đầu thống: Có 2 loại chính: cơn bán đầu thống không có aura (cơnbán đầu thống chung) và bán đầu thống có aura (bán đầu thống cổ điển bao gồm thể cổ điển, thể không đau đầu, bán đầu thống mạch nền, bán đầu thống liệt nửa người gia đình, bán đầu thống có aura kéo dài/cấp tính).
Ngoài 2 loại bán đầu thống còn có bán đầu thống liệt mắt, bán đầu thốngvõng mạc, trạng thái bán đầu thống, cuối cùng nhồi máu bán đầu thống.
- Triệu chứng:
* Bán đầu thống chung:
. Các triệu chứng rất hay gặp xảy ra ít giờ trước cơn vào buổi sáng và tối như rối loạn khí chất, mệt mỏi, ngủ gà, rối loạn tiêu hoá, cảm giác đói.
. Đau đầu bao giờ cũng có. Thường bắt đầu buổi sáng và đạt tới mức tối đa trong ít giờ. Thời gian kéo dài rất khác nhau, thường có kết thúc trong ngày, nhưng cũng có thể kéo dài vài ngày nhưng không quá 72 giờ. Vị trí, theo cổ điển là một bên (nhức nửa đầu) nhưng có thể hai bên. Cường độ nhức cũng thay đổi: thường dữ dội, buộc phải ngừng mọi việc, hoặc ngược lại rất kín đáo chỉ cảm thấy khi cử động đầu. Nhức tăng lên khi gắng sức, ánh sáng vàtiếng động; đỡ đi khi nghỉ ngơi, khi ở trong tối, đôi khi đỡ do chườm lạnh hoặc khi ép các động mạch thái dương. Nhức thường có tính chất mạch đập.
. Các dấu hiệu đi kèm thường thấy là rối loạn tiêu hoá như buồn nôn, nôn. Cáu gắt, khó tập trung trí tuệ với cảm giảm "đầu trống rỗng".
* Cơn bán đầu thống có aura:
. Báo hiệu thị giác hay gặp nhất (bán đầu thống mắt) bao gồm: ám điểm lấp lánh đó là đom đóm mắt xuất hiện ở trung tâm nhìn, sau đó lan rộng từ một bên ra ngoại vi thị trường di chuyển chậm, thường có hình gãy khúc, để lại phía sau một ám điểm cản trở sự nhìn.
. Các hiện tượng sáng khác có thể thấy: các vệt như đom đóm sáng hoặclấp lánh, các đường zic-zăc màu, các chớp sáng lặp lại nhiều lần.
. Ngoài ra còn có thể có các dạng thiếu sót hoặc chiếm hơn nửa các rối loạn tri giác nhìn hoặc các ảo giác hình thành.
. Các báo hiệu cảm giác: dị cảm một bên vị trí tay - mồm và tăng dần chậm, cảm giác gà mổ lan toả dần đến toàn bộ bàn tay rồi cẳng tay, khuỷu tay và "nhảy" lên 1/2 mặt cùng bên ở vùng quanh miệng. Dị cảm này theo một hành trình bán đầu thống. Rối loạn tri giác, sơ đồ cơ thể, hoạ hoằn mới có ("hội chứng của Alice: bệnh nhân như đang ở xứ sở huyền diệu").
. Rối loạn ngôn ngữ, ít gặp và ít khi đơn độc, có thể xâm phạm từ diễn đạt, hiểu chữ viết, đọc, có thể có sự đảo lộn các vần, ảnh hưởng đến cú pháp, còn có thể biệt ngữ (nói không hiểu được), câm...
. Rối loạn vận động: ít gặp so với các rối loạn trên. Thường là yếu bàn tay có khi tiến tới liệt.
. Tiến trình cơn bán đầu thống có báo hiệu: các báo hiệu dài 20 đến 30 phút rồi mất dần trong khi đó xuất hiện đau đầu. Đau đầu thường khác bên với báo hiệu, nhưng cũng có thể cùng bên và như vậy rất giá trị gợi ý một bán đầu thống. Đau đầu tồn tại 1 đến 2 giờ. Có thể hoàn toàn không có đau đầu.
* Các loại bán đầu thống khác:
- Bán đầu thống nền: Bán đầu thống bắt đầu bằng các rối loạn biểu hiện rối loạn thị giác 2 bên, khó nói, chóng mặt, ù tai hoặc giảm thính lực, nhìn đôi, thất điều, dị cảm 2 bên, liệt nhẹ hai bên, rối loạn ý thức.
- Bán đầu thống liệt mắt, loại này đau đầu dài 6-7 ngày, sau đó liệt mắt thường là dây III.
- Bán đầu thống võng mạc: đó là cơn lặp lại nhiều lần các ám điểm hoặc mù một mắt tạm thời không dài quá 1 giờ, có kèm đau đầu.
- Cơn bán đầu thống liệt nửa người gia đình.
- Nhồi máu bán đầu thống, hiếm gặp, trong loại này các báo hiệu không giảm đi.
- Trạng thái bán đầu thống: đặc tính là đau đầu liên tục hoặc dữ dội trong nhiều ngày (72 giờ), có thể dẫn đến một trạng thái báo động loại suy sụp và mất nước. Trạng thái bán đầu thống thường liên quan đến một ngộ độc thuốc (do thuốc chữa bán đầu thống). Phần lớn bệnh nhân phải nhập viện để cắt cơn và chống mất nước. Thường điều trị bằng tiêm Laroxyl +/- Lagartil. Cần thiết nên ngừng các loại thuốc cựa lúa mạch.
- Tiến triển: bán đầu thống là một bệnh bắt đầu sớm trong đời sống, thường ở trẻ con hoặc thiếu niên. Sau đó có một giai đoạn êm dịu dài nhiều năm trước khi tái phát cơn khác vào tuổi thưởng thành. Bán đầu thống tiến triểntừng cơn, cơn nọ cách cơn kia bởi một thời gian yên ổn, lúc đó bệnh nhân hoàn toàn bình thường. Thời kỳ có cơn khác nhau giữa bệnh nhân này với bệnh nhân khác và khác nhau trên cùng một bệnh nhân; có thể có đợt nhiều cơn xen kẽ, đợt giảm bệnh hoàn toàn kéo dài nhiều năm. Rất khó nói đến tần suất trung bình các cơn.
- Loại cơn cũng thay đổi giữa cơn này với cơn khác: 60% các bệnh nhân chỉ bị các cơn bán đầu thống chung, 10% chỉ bị các cơn bán đầu thống đi kèm, nhưng 30% chuyển đổi cơn này sang loại cơn khác.
Nói chung, các cơn tự nó ngày càng thưa sau tuổi 40 và có thể mất đitrong một số trường hợp. Tuy nhiên ở thời kỳ mãn kinh các cơn có xu hướng nặng lên.
- Chẩn đoán:
. Tiêu chuẩn chẩn đoán dựa vào cách cho điểm nếu có như sau: aura 3, tiền triệu 1, yếu tố khởi phát rõ 1, đau nửa đầu 1, nôn/buồn nôn 1, đau tăng trong chu kỳ kinh nguyệt 1, đáp ứng với ergotamin 1 và yếu tố gia đình 1 điểm. Nếu điểm cộng từ 5 trở lên là chẩn đoán đau nửa đầu.
. Đối với đau nửa đầu không có aura thì dựa vào tiêu chuẩn sau:
A. Ít nhất đã có 5 cơn đau đầu phù hợp với cáctiêu chuẩn (B, C, D, E).
B. Cơn đau đầu kéo dài không quá 72 giờ.
C. Đau nửa đầu kiểu mạch đập, tăng khi vận động, ánh sáng.
D. Kèm theo nôn, sợ ánh sáng, tiếng động.
E. Tiêu chuẩn loại trừ: không có chẩn đoán nào hơn đau nửa đầu không có aura.
- Điều trị bán đầu thống:
. Điều trị cơn: chỉ áp dụng khi có cơn, càng sớm càng tốt, ngay khi có các chứng báo hiệu. Cần nhớ rằng sự hấp thụ qua đường tiêu hoá của nhiều loại thuốc trong đó có tartrate ergotamine bị giảm trong cơn, kể cả khi không có nôn.
Có 3 loại thuốc có thể dùng đó là các thuốc chống nhức:
. Paracétamol (Dolipran, Dafalgan, Efferalgan, liều 1 đến 2 g/ngày); Dextropropoxyphène (Diantalvic, Propofan); Noramidopyrine (Optadion, Viscéralgin, Baralgin); các dẫn chất của Codéin hoặc của Morphin (Veganine, Efféralgan codéin).
. Các thuốc chống viêm, chống nhức không stéroid Aspirine (Aspégic) vớiliều 300 mg và 2 g/ngày thường có tác dụng với các thể nhẹ bán đầu thống. Các loại chống viêm chống nhức không stéroid khác.
. Các dẫn chất của cựa lúa mạch: Tartrate ergotamine (Gynergène caféine viên 1mg hoặc đạn nạp hậu môn 2mg; Migwel viên 2 mg). Đây là loại thuốc có tác dụng nhấttrong đau đầu bán đấu thống (kết quả khoảng 40-90% tuỳ công trình), nhưng có thể làm tăng nôn. Cần phải cho uống rất sớm lúc chớm có cơn, và tiếp tục uống lần thứ hai sau 30 phút nếu chưa thấy tác dụng. Thường dùng loại uống, nhưng nếu cần có thể dùng đường hậu môn nếu bệnh nhân có nôn nhiều.
Dihydroergotamine đường mũi (Diergospray), dùng tiêm bắp, dưới da, hoặc đường tĩnh mạch.
Sumatriptan (viên 25-50 mg/ống 6 mg tiêm dưới da) thuốc co mạch trung ương, đồng vận của Sérétonine loại "5-TH1; thuốc làm giảm đau đầu trong 60% qua đường uống và 80% khi tiêm dưới da. Chống chỉ định khi có thiếu máu cơ tim, đau thắt ngực Prinzmetal, đau đầu sống nền.
- Điều trị dự phòng:
Khi có từ 2 cơn trong 1 tháng, điều trị triệu chứng bán đầu thống chống chỉ định, đau đầu có aura kéo dài hay đau đầu kèm nhồi máu não.
Thuốc chống tác dụng kiểu Sérotonine: Oxétorone (Nocertone) 2-3 viên/ngày. Nguy cơ ngủ gà và tăng cân. Methysergide (Désernil) 2 đến 3 viên mỗi ngày bằng cách tăng dần liều, ví dụ, cứ 5 ngày tăng 1/2 viên, để tránh các tác dụng không mong muốn xảy ra sớm, buồn nôn, chuột rút, mất ổn định. Có một biến chứng hiếm gặp, xuất hiện dài ngày là xơ sau phúc mạc. Nguy cơ này đòi hỏi theo dõi lâm sàng (tìm dấu đau lưng - bụng), sinh hoá (lắng máu kiểm tra trong vòng 3-4 tháng, urê, créatinine tăng nếu có xơ thận), và nên ngừng thuốc 1 tháng mỗi 6 tháng, hoặc cứ 8, 9 tháng ngừng 3 tháng. Các chống chỉ định là suy mạch vành, cao huyết áp, có thai.
- Các thuốc chẹn Bêta:
. Không phải mọi loại đều tác dụng với bán đầu thống. Trong thực hành, được dùng nhiều nhất là Avlocardyl 1 đến 3 viên/ngày (40 đến 120 mg) và Atenolol (Ténormine). Các chống chỉ định: suy tim, hen, nghẽn nhĩ thất, loét dạ dày tiến triển, Raynaud.
- Các thuốc ức chế Calci: flunarizine (Sibelium) 1 viên buổi tối. Nguy cơ buồn nôn và tăng cân.
- Thuốc chống trầm cảm như Amitriptyline/Fluoxetine buổi tối 1 viên.
- Thuốc chống co giật: Divalproex 500 mg/ngày.
- Điều trị không dùng thuốc có thể có hiệu quả như châm cứu, thư giãn,...
b. Đau dây V:
- Biểu hiện lâm sàng:
Xuất hiện sau 50 tuổi. Phụ nữ gặp nhiều: 3 nữ cho 2 nam, nguyên nhân còn chưa biết. Họa hoằn tìm thấy tính chất gia đình. Cũng có thể mắc bệnhsớm hơn và lan toả hai bên. Bắt đầu đột ngột, ngay tức thì bởi cơn nhức dữ dội, như kim đâm, như phóng điện, xâu xé, nghiền nát. Xuất hiện nhức cách hồi, với các giai đoạn tiềm tàng hoàn toàn giữa các cơn nhức. Vị trí nhức thay đổi, nhưng cố định đối với cùng một bệnh nhân và bao giờ cũng một bên ở giai đoạn đầu. Đau giới hạn lúc đầu ở 1 khu vực của dây V, thường là khu vực dây hàm trên (môi trên, cánh mũi, răng nanh trên), ít gặp hơn là vùng thuộc dây hàm dưới (cằm, răng nanh dưới), hoạ hoằn thuộc dây mắt. Trong quá trình tiến triển có thể đau cả 3 khu vực dây V và lan toả ra hai bên.
Các cơn đau có thể gây ra các hiện tượng vận động như rung cơ, có thể co cứng cơ đó là "chứng máy cơ mặt".
Đau kéo dài vài giây đến 2 phút, khởi phát và hết đều đột ngột, tiến triển từng đợt đau nhói và lặp lại hàng loạt cơn.
Các cơn có thể phát động bởi các kích thích khác nhau đối với từng bệnh nhân (nhai, lời nói, ho, hắt hơi, cười, kích thích vào một vùng niêm mạc hoặc da ở mặt...)
Sự tồn tại một vùng "cò súng" hoặc "vùng kích thích" là đặc điểm của đầu dây V không nguyên do. Cách tiến triển thông thường là sự xen kẽ các đợt đau với giai đoạn giảm bệnh. Tần suất các cơn rất khác nhau cách nhau vài ngày đến nhiều tháng, nhưng bệnh có xu hướng nặng lên theo tuổi, các đợt giảm dãn xa ra, trở nên ngắn hơn, có thể mất đi; tuy nhiên trong các ca đó, giấc ngủ vẫn không bị ảnh hưởng.
Chẩn đoán hoàn toàn dựa vào lâm sàng. Khám thần kinh bình thường (không có các dấu hiệu tổn thương dây V hoặc các dây sọ não khác nếu khám giai đoạn giữa các cơn. Nếu có một bất thường của dây V dù nhỏ, dù không điển hình cũng cần chụp cắt lớp vi tính hay cộng hưởng từ.
Đau có thể lan ra tai (dây thần kinh Jacobson), hoặc ra vùng của dây thần kinh hàm dưới rất rõ. Các dấu hiệu phối hợp như nhịp tim chậm, ngất.
Ngoài vô căn có thể có những nguyên nhân sau: các u (u vòm họng, u góc cầu tiểu não, u màng não xoang bên). Nhiễm khuẩn (viêmtai, viêm hạnh nhân mạn tính, cốt tuỷ viêm, viêm khớp cột sống cổ, viêm màng nhện). Các túi phồng động mạch cảnh trong, động mạch sống.
Điều trị:
Carbamazepine: Tégrétol 3-4 viên/ngày hay Diphényl hydantoine (Dihydan).
Clonazépam: Rivotril 1-2 mg 1 đến 4 viên/ngày. Lamotrigine 40 mg/ngày, Baclofen10-20 mg 3-4 lần/ngày.
Trường hợp thất bại có thể tiêm rượu vào các nhánh ngoại vi của dây V, cóthể đốt điện hạch Gasser bằng đường qua da, hoặc cắt dây thần kinh sau hạch Gasser.
3. Các loại đau đầu dai dẳng:
a. U não, bệnh Horton.
b. Các đau đầu nguồn gốc tâm thần: Hay gặp (50% các loại đau đầu). Các dấu hiệu gợi ý:
- Kiểu đau như cảm giác kim châm, cảm giác thân thể kỳ lạ, thấy như bị súc vật gậm nhấm não, nhức như bị kẹp đầu.
- Mất cân xứng giữa cường độ nhức do bệnh nhân kêu và sự chịu đựng dễ dàng.
- Định khu: lan toả hoặc ngược lại rất khu trú (nhức vùng đỉnh đầu là triệu chứng rất gợi ý). Nhức có thể ảnh hưởng cả gáy và vùng chẩm: như vậy, nhứctương ứng với đau đầu dạng căng cơ hoặc với hội chứng Atlas (liên quan đến co các cơ gáy quá mức).
- Khuynh hướng tiến triển là yếu tố có tính chất gợi ý nhất: đau đầu mãn tính, tiến triển trong nhiều tháng thậm chí nhiều năm, đau từng ngày từ sáng đến tối.
- Các bệnh nguyên chính của các đau đầu nguồn gốc tâm thần:
. Các trạng thái lo âu.
. Các trạng thái ám ảnh.
. Loạn thần kinh chức năng.
. Các hội chứng trầm cảm: tất cả các dạng trầm cảm đều có thể kèm đau đầu. Đau đầu là một trong các triệu chứng chính của trầm cảm ở người cao tuổi. Nó có thể trội lên về triệu chứng học đến mức các triệu chứng trầm cảm trở nên hàng thứ yếu. Thấy được sự liên quan của đau đầu với một nguyên nhân cụ thể là đặc biệt quan trọng để bắt đầu điều trị các thuốc chống trầm cảm.
c. Đau đầu chuyên khoa:
- Bệnh lý mắt: tất cả đau đầu không đặc hiệu cần khám mắt. Glôcôm cấp gây rối loạn thị lực nhanh chóng 1 hay cả 2 mắt; rối loạn về khúc xạ không điều chỉnh tốt có thể đau đầu ít dữ dội, nặng nề ở hai bên trán và xảy ra hàng ngày.
- Bệnh lý tai mũi họng: viêm xoang đặc biệt là xoang trán và xoáng bướm.
- Bệnh lý răng hàm mặt: hội chứng Coster do rối loạn chức năng của khớp thái dương hàm liên quan đến sai khớp cắn. Các triệu chứng bao gồm đau, nhai cùng cục, khớp nhô lên, trật khớp thái dương - hàm khi nhai.